Tuesday, July 7, 2009
Biệt Kích “Chuột Nhắt” Nguyễn Văn Tính
Khởi đầu, tôi gia nhập Đoàn Kỵ Binh của Pháp năm 1953. Nam dinh Sau trận Điện Biên Phủ, Đoàn Kỵ Binh di tản về Hà Nội để sửa soạn xuống tầu đi Tunisie, ai không muốn đi thì có quyền ở lại quê nhà. Tôi xin về quê và theo giáo xứ di cư vào Nam năm 1954, sống ở Thừa Thiên.
Khi được tin “Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung” đang cần tuyển những thanh niên có tinh thần chống cộng và có kinh nghiệm chiến trường, tôi được Cha Bình, địa phận Thừa Thiên giới thiệu với Ông Ngô Đình Cẩn. Tôi được nhận vào đoàn ngay và được huấn luyện trở thành một “Điệp Viên”, với nhiệm vụ là tìm và bắt những cán bộ Việt Cộng được gài lại hoặc núp bóng dân tỵ nạn vào Nam để phá hoại.
Làm việc với Đoàn công tác một thời gian, tới năm 1959, tôi được thuyên chuyển qua “Sở Khai Thác Địa Hình” , “Sở Bắc” do Đạt Tá Trần Văn Hổ làm chỉ huy trưởng, sau này đổi tên thành “Nha Kỹ Thuật” của Phòng 7 Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Kỹ thuật mà “Nha” này đảm trách, không phải là kỹ thuật về sửa chữa máy móc dành cho xe nhà binh, tầu chiến, mà là kỹ thuật sử dụng máy truyền tin, chất nổ . v. v. dùng trong điệp vụ phá hoại miền Bắc. Quê tôi ở miền Bắc, khi di cư vào Nam, tôi và tất cả mọi người dân di cư đều mơ đến một ngày cùng đại quân quay về chiếm lại miền Bắc thống nhất đất nước. Đây là dịp may cho tôi để thực hiện giấc mơ này. Mọi việc đang tiến triển khả quan thì xẩy ra đảo chánh, mọi điệp vụ đều bị ngưng lại.
Đến năm 1964, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ chủ trương đánh ra Bắc để chuyển chiến trường về miền Bắc, để buộc bọn Việt Cộng phải đem quân trở về bảo vệ đất đai của chúng, do đó, các toán biệt kích lại được gởi ra Bắc để làm đầu cầu tiến quân.
Từ Huế, tôi được gởi đi học khóa huấn luyện biệt kích ở Long Thành. Chương trình kéo dài trong 12 tháng, bao gồm 5 môn học chính:
Phá hoại - Tâm lý chiến - Vũ khí - Nhẩy dù và Truyền tin.
Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện là một trong những Huấn Luyện Viên của chúng tôi. Mỗi khi học môn học nào, chúng tôi được gởi đi tới trường chuyên môn để học chung với các khóa sinh khác. Ví dụ như: Học truyền tin, chúng tôi được gởi đi Trung tâm huấn luyện Truyền Tin ở Vũng Tầu. Học nhẩy dù, chúng tôi học ở trại Hoàng Hoa Thám, chung với các chiến binh của Sư đoàn Nhẩy Dù. .v . . v.
Mãn khóa học, tôi được đưa ra phi trường để bay tới Nha Trang. Tại đây, tôi được xe đưa về ở nhà của Thượng sĩ Phú, ANQĐ của Sư Đoàn 2 và được gặp tất cả 8 biệt kích quân của toán “Lôi Hổ - Thundering Tigers”. Đi chơi lòng vòng ở Nha Trang một ngày, tới chiều hôm sau, lúc 3pm, toán chúng tôi được bay qua Thái Lan, rồi đổi máy bay C47 để bay ra Bắc. Đúng 12am, toán Lôi Hổ đã có mặt trên vòm trời biên giới của ba tỉnh Mộc Châu, Lai Châu, Sơn La. Toán chúng tôi gồm có:
Trưởng Toán: Đinh Công Châu,
Phó T Toán: Bùi Văn Giao,
Cố Vấn: Nguyễn Văn Tính,
Toán viên: Hoàng Văn Giám,
Toán Viên: Hoàng Văn Thế,
Toán Viên: Đinh Viết Lam,
Truyền Tin: Nguyễn Văn Thái,
Toán Viên: Dương Văn Liễu,
Nhiệm vụ: Thám sát, phá hoại, lập đầu cầu.
Trang bị: Tỉểu liên hãm thanh 32 viên, súng colt 9mm hãm thanh 14 viên và 4 tấn dạn dược thuốc nổ, thức ăn khô.
Địa điểm tập trung: Căn cứ Biệt Kích ở Lai Châu.
Khi dù đang lơ lửng trên không, tôi đã nghe có tiếng chó sủa. Rơi xuống đất, chưa kịp cuốn dù là tôi đã nhìn thấy những ánh đèn pin và chó sủa thật gần: Chúng tôi có thể đã bị lộ và đang bị bao vây? Vì nhẩy ở rừng, tất nhiên là tôi bị vướng vào cây, phải dùng lưỡi lê cắt dây dù để nhầy xuống. Để cho nhẹ nhàng khi nhẩy dù, chúng tôi chỉ mang theo nguời một cấp số đạn cho khầu tiểu liên và súng colt, do đó, chuyện cần thiết khi xuống đất là phải tìm cho ra người truyền tin và đồ đạc được thẩy ra cùng với anh ta. Nhưng bọn Việt Cộng đã tới gần quá, tôi chỉ còn kịp cắt dây cột súng ra để chiến đấu mà thôi. Địch quân rất đông, đông lắm, lại thêm chó săn nữa! Trưởng toán Đinh Công Châu và phó toán Bùi Văn Giao cố gắng cản hậu cho anh em rút lui, đã bị trúng đạn. Anh Giao bị tử thương, Thái bị thương, chúng tôi vừa bắn vừa tìm đường tẩu thoát, mỗi người một nơi.
Tôi vượt thoát vào rừng sâu, ngày ngủ đêm di chuyển. Địa điểm tập trung coi như đã bị lộ, tôi chỉ còn cách nấn ná tìm anh em rồi rút về phía biên giới Lào để tìm đuởng liên lạc với căn cứ xin trực thăng bốc về. Qua ngày thứ 10, tôi vẫn không tìm được ai trong số 7 người còn lại. địch vẫn bám sát, tôi bắn hết đạn, đành phá hủy hết tài liệu và dụng cụ còn lại. Bọn Việt Cộng đã tìm ra tôi, nhưng chúng không dám xung phong bắt sống tôi, mà chỉ bao vây chung quanh ra lệnh cho tôi đầu hàng. Tôi nhào vào bọn chúng bắn những viên đạn cuối cùng rồi lẩn vào rửng sâu, nhưng bọn chúng đã ào lên chĩa súng vào tôi sẵn sàng nhả đạn.
Đời Biệt Kích của tôi chấm dứt từ đây!
Chúng bịt mắt, trói tay tôi dẫn đi về căn cứ của chúng. Tôi bị thương, lại nhịn ăn suốt 10 ngày trời, nên đi bộ rất chậm. Đi đuợc khoảng một tiếng đồng hồ, tôi vờ ngã gục, không đi được nữa. Mục đích của tôi là nằm nghỉ lấy sức và tìm dịp chúng sơ hở là chạy trốn. Mặc dù tôi đã nằm một đống dưới đất, nhưng bọn chúng vẫn cẩn thận, đứa nào cũng lên đạn lắc cắc chĩa vào tôi. Có mấy đứa dùng báng súng đánh vào đầu vào mình tôi thê thảm. Tôi vùng lên dựt một báng súng đánh lại. Tên chỉ huy ra lệnh cho tôi:
“Thằng biệt kích ngụy, mày không được chống lại bộ đội nhân dân. Bỏ súng xuống, không thì “ông” bắt mày chết tươi đấy!”
Tôi biết nó dọa thôi, chứ không dám bắn, vì phải đem tôi về mà thẩm vấn. Tôi nắm chặt cái báng súng, nói lớn:
“Tôi đã bị bắt làm tù binh rồi, đã bị trói tôi rồi, các anh không đuợc đánh tôi.”
Tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính không đánh tôi nữa, nói cả bọn ngồi chờ đó để hắn xin lệnh thượng cấp. Một lúc sau, có xe tới đưa tôi và cả bọn đi. Đi đâu thì đuơng nhiên là tôi không biết rồi, nhưng chung quanh toàn là rừng núi, có về thị xã thì ít nhất cũng phải mất nửa ngày.
Tôi tỉnh đậy khi bọn chúng khiêng tôi thẩy đùng xuống sàn đất đau điếng. Cả người tôi tê rần, nhức buốt. Tôi đã thuộc lòng những lời khai cần thiết khi bị bắt, nên không ngại, chỉ suy nghĩ về những anh em khác, họ có bị bắt như tôi không? Khi tản hàng, chạy mỗi người một ngã, tôi nghe tiếng súng tứ phía, nên không biết tình hình ra sao, chỉ mong rằng anh Thái truyền tin còn đủ thời gian để gởi gấp tín hiệu “Đã bị lộ” cho trạm liên lạc ở Lào, để toán này gởi tin về cho trung ương ngay, kịp thời thay đổi cách thức và nơi xâm nhập cho toán đi sau.
Tôi không biết số phận của những toán đã xâm nhập trước tôi ra sao? Tôi chỉ đuợc nghe rằng các toán trước đã xâm nhập thành công và vẫn gởi tin về đều đều. Như vậy là chỉ có toán của tôi là xui xẻo bị lộ? Tôi nhất quyết không khai bất cứ điều gì có hại tới đại cuộc. Người lính biệt kích trước khi ra trận đã chấp nhận không trở về, vậy thì hãy chấp nhận thương đau đi. Sống ngẩng mặt trông lên, chết khôn thẹn với luơng tâm. Mai này, nếu còn đường trở về, sẽ lại ngẩng cao mặt với đời. Hơn nữa, tôi đã được cho biết kỹ càng: Chúng tôi là điệp viên, không số quân, không căn cước, không đơn vị, không cấp trên. Nếu lỡ bị bắt, sẽ không đơn vị nào nhìn nhận chúng tôi, không chính phủ nào bảo bọc chúng tôi. Công việc của chúng tôi làm là do tự nguyện, vì lòng yêu nước, vì thù hận bọn cộng sản dã man cam chịu làm tay sai cho bọn cộng sản quốc tế mà nhuộm đỏ cả miền Bắc, nay còn gởi quân xâm chiếm miền Nam với mục đích truyền bá chính sách cộng sản.
Từ khi bị bắt, bọn chúng không cho tôi một giọt nước, một hột cơm: Không thành vấn đề! Nhưng tôi chưa nghĩ xong mọi chuyện thì bọn VC đã bắt đầu lôi tôi ra thẩm vấn. Bọn chúng buộc hai tay tôi giang ra xa, bắt tôi ở thế đứng nhìn thẳng vào bọn thẩm vấn. Tên thẩm vấn đầu tiên hỏi tôi:
-Thằng biệt kích ngụy, tên mày là gỉ? Quê quán ở đâu? Đơn vị nào? Có bao nhiêu người cùng xâm nhập về Bắc?
- Tôi tên Nguyễn Văn Tính, đã cùng anh em nhẩy ra Bắc để giải phóng quê hương của tôi ra khỏi ngục tù cộng sản. Cấp trên ra lệnh, chỉ biết tuân hành, không biết gì hơn.
Mặc cho bọn chúng nổi cơn lôi đình, nạt nộ, dọa nạt, tôi nhất định chỉ khai có bấy nhiêu.
“Thằng biệt kích ngụy ngoan cố. Mày không cần khai, tao cũng biết mày do bọn Mỹ ngụy đầy ra Bắc để chết. Làm sao mà chúng mày có thể lấy được tin tức gì của chúng tao! Đánh cho chết nó đi!
Mặc cho chúng đánh, mặc cho chúng dùng bất cứ cực hình nào, tôi cũng chỉ có câu trả lời:
-Là lính biệt kích, chỉ biết tuân lệnh cấp trên, không biết gì hết, vì không ai cho biết gì cả!
Đêm tới, bọn chúng lại thẩy tôi lên xe bít bùng chạy nữa. Đây là giây phút thoải mái nhất từ ngày bị bắt: Tôi được tự do ngủ bù, không bị phiền phức gì nữa, ít nhất cho tới khi tới địa điểm mới.
Tới nơi, tôi vẫn không biết là chỗ nào, tất cả đều tối om như mực, và chúng vẫn bịt mắt tôi. Chỉ biết là nơi đây sàn đá rất kiên cố. Đưa tôi vào phòng giam rồi, chúng mới cởi khăn bịt mắt của tôi ra, dùng cùm chữ U xỏ hai chân tôi vào, khóa lại kỹ càng rồi bỏ đi ra. Sáng hôm sau, khi ánh sáng tràn vào, tôi mới nhìn rõ nơi bị giam: Đó là một căn phòng biệt lập kín mít, chỉ có một của ra vào và một cửa sổ nhỏ có song sắt ở trên cao. Sau khi được cho ăn sáng, bọn cai tù đưa tôi lên tra vấn. Sau khi kê khai tên tuổi, bọn chúng hỏi tôi:
“Mật mã của anh là gì?”
“Tôi không nhớ, nên đã ghi vào một tờ giấy để trong áo khoác. Các ông đã lột áo của tôi rồi, hãy kiếm ở trong đó sẽ có. Còn bây giờ thì tôi quên rồi, không thể nhớ ra được.”
Thực sự thì có ai lại đi ghi mật mã của mình vào giấy bao giờ! Tôi nói là nói vậy thôi, chứ còn tôi thuộc nằm lòng nó từ lúc học truyền tin lận. Biệt kích mỗi người được gọi bằng một ám số riêng. Khi báo cáo về trạm liên lạc, phải nói con số này trước để kiểm soát. Nếu đúng thì mới có thể liên lạc tiếp được. Nếu không đúng, điện đài sẽ cúp máy ngay.
Chắc chắn là bọn chúng đã kiểm soát rất kỹ cái áo ngoài của tôi rồi và không thấy gì cả. Nhưng khi tôi trả lời như vậy, tên trưởng toán thẩm vấn cũng không nói gì cả.
Tiếp theo chúng hỏi tôi những câu thông thường:
-Quê quán của anh ở đâu? Trưởng toán của anh là ai? Toán của anh có mấy người?
Quê quán thì chắc chắn là tôi trả lời không đúng sự thật rồi, còn mấy câu hỏi sau, tôi cứ theo sự thật mà trả lời, vì chúng có thể đã biết rồi.
Đến khi chúng hỏi tôi:
-Tại sao lại theo miền Nam để về chống phá cách mạng?
Thì tôi trả lời ngay:
-Miền Bắc của các anh sống trong chế độ Cộng Sản, kìm kẹp đàn áp con người mất tự do, bóc lột người dân tới tận cùng cực khổ nghèo đói. Chúng tôi có nhiệm vụ trở về miền Bắc để giải phóng người dân Việt khỏi ách Cộng Sản.
Bọn chúng đập bàn đập ghế tranh cãi với tôi tới sùi bọt mép, nhưng cũng không làm sao dụ dỗ tôi theo chúng được. Chúng phải biết là những biệt kích đều là những người có tinh thần chống Cộng cao độ, gia đình đã từng bị bọn Cộng Sản giết hại. Trước khi nhẩy ra Bắc, chúng tôi đã được học một khóa tâm lý chiến, biết rõ căn bản của chủ nghĩa Cộng Sản, thì làm sao chúng có thể tuyên truyền tẩy não chúng tôi được!
Cứ một tuần hai lần, chúng gọi tôi lên hỏi cung, chứ không ghi chép hoặc bắt kê khai giòng họ, gia phả gì cả. Chắc chúng cũng đã biết, biệt kích đã được học cách trả lời rồi, nên chẳng mất công đâu mà hỏi dài giòng. Bọn chúng cho tôi ăn mỗi ngày ba bữa, tiêu tiểu vào trong một cái bô, đến chiều được mở cùm ra đi đổ bô khoảng mười phút, mỗi tuần được tắm một lần.
Khi đã phục hồi sức khỏe, tôi đã thử rút chân ra khỏi cùm. Cái cùm hình chữ U có then ngang, tôi nhỏ con, nên cái cùm không ăn nhằm gì với tôi cả. Tôi thử rút chân ra, hơi nhúc nhích cái chân một chút là tôi đã có thể rút cả hai chân ra khỏi cùm một cách dễ dàng. Tôi thử bỏ chân trở lại cái cùm, cũng không có gì khó khăn, nên yên chí rút chân ra đi vòng vòng trong nhà giam. Khi đã gần đến giờ bọn bọn cai tù tới, tôi lại đút hai chân vào cùm ngồi rất ngoan ngoãn. Có lúc tôi thử nhẩy lên cao nhìn ra ngoài, chỉ thấy nhiều dẫy nhà khác cũng bằng đá ở chung quanh. Có lần tôi cũng đã tìm cách rờ thử trần nhà xem có thể dùng vật nhọn đục thủng trần nhà để thoát ra ngoài hay không? Trần nhà đã có nhiều vết đục từ trước, tôi thử đục tiếp theo thì thấy cát từ trên trần nhà rới xuống nhiều lắm. Tôi vội vàng nhẩy xuống không dám đục thêm, tìm cách hót đám cát này vứt ra ngoài cửa sổ, vì cát rơi xuống sẽ bị bọn cai ngục nhìn thấy, sẽ bị đòn thê thảm. Sau này, tôi mới biết trại tù này tên là Thanh Trì, gần Hà Nội. Trại này do Pháp xây từ lâu, dùng để nhốt những nhà Ái Quốc Việt Nam. Trần nhà tuy chỉ làm bằng xi măng nhưng ở phía trên đổ cát rất dầy (khoảng 1m), để tránh hỏa hoạn và cũng để tù nhân không có cách trốn thoát.
Khoảng một năm sau, bọn chúng chuyển tôi đi trại Thanh Nghiệp ở Hà Đông, rồi qua trại Thanh Phong ở Lào Kay.
Từ năm 69 tới 72 thì tôi ở trại Vĩnh Phú. Ở đây, bọn chúng cho chúng tôi ở trong phòng biệt giam, mỗi phòng có từ 1 tới 7 người. Trại giam làm bằng cây, mái rơm. Mỗi phòng cách nhau bắng một tấm phên, chúng tôi không còn bị cùm chân nữa, được cho làm công việc như đan, lát ở trong phòng. Tôi lợi dụng nghề đan lát này cùng với thân hình nhỏ con để cắt một lỗ nhỏ ở tường ngăn mà chui qua phòng kế bên nói chuyện với anh em ở các toán khác. Khi trở về, tôi để tấm phên đã cắt vào lỗ rồi dùng tài đan chúng lại với nhau, không ai có thể biết là chỗ này đã bị cắt và đan lại. Nhờ cách thức di chuyển này mà tôi mới gặp được những anh em biệt kích khác, từ đó, tôi mới biết toán của tôi, ai còn ai mất? Đinh Viết Lam đã tử trận ngay trận giao tranh đầu tiên, 6 người còn lại, kể cả tôi, đều bị bắt. Có hôm, vào buổi tối, tôi đã lần mò tới tận trại của bọn cai tù mà nghe lén chúng bàn bạc công tác với nhau rồi về báo lại cho anh em biết mà đề phòng. Cũng vì cái tài cắt tường bò đi khắp mọi nơi, anh em biệt kích mới đặt cho tôi cái tên: “Chuột Nhắt”
Thời gian ở Vĩnh Phú cũng là thời gian tốt nhất cho anh em biệt kích chúng tôi chỉnh đốn lại đội ngũ đã có từ trước, đoàn kết với nhau, khích lệ nhau mà sống. Khẩu hiệu của chúng tôi là:
“Biệt Kích vẫn làm nhiệm vụ của mình”
Chúng tôi được đưa về Bắc làm nhiệm vụ đầu cầu, mặc dù chúng tôi đã bị bắt, không làm được gì nữa, nhưng chúng tôi lợi dụng thời gian này để bảo tồn lực lượng, giữ gìn sức khỏe, giữ vững lập trường chống cộng và chờ thời cơ. Khi nào đại quân miền Nam tiến về Bắc, chúng tôi sẽ bung ra làm nhiệm vụ hướng dẫn, tiêu diệt những hạ tầng cơ sở của bọn Cộng Sản phi nhân.
Muốn đạt được những mục đích trên, việc đầu tiên chúng tôi quan tâm là, không để cho bọn CS chèn ép, đàn áp chúng tôi. Muốn như vậy, chúng tôi cố gắng không phạm những lỗi lầm mà bọn VC đã đặt ra, ghi trong “Quy Luật Của Trại Giam”. Nếu có ai trong chúng tôi lỡ phạm lỗi, chúng tôi yêu cầu được đưa họ lên gặp trưởng toán, trưởng trại của chúng tôi để họ bị phạt, chứ không để bọn cán bộ VC tự ý phạt theo ý muốn của chúng. Dĩ nhiên, hình phạt của chúng tôi phải gắt gao hơn hình phạt của bọn VC, để vửa lấy lòng tin của bọn chúng, vừa giữ được kỷ luật của biệt kích.
Mỗi khi bọn Việt Cộng muốn giao một nhiệm vụ gì đó cho từng cá nhân, mỗi người chúng tôi đều tìm cách báo lại cho trưởng toán để cho họ biết hoặc để xin ý kiến.
Mỗi khi bọn VC muốn cả trại chúng tôi làm một công tác nào đặc biệt, tất cả anh em biệt kích sẽ họp lại với nhau cùng quyết định có nên làm hay không? Nếu không làm, chúng tôi hoặc là đề nghị thẳng với bọn chúng một phương pháp khác, hoặc là làm bộ khai bịnh để làm chậm lại kế hoạch của chúng. Tuy nhiên, khi đã quyết định đồng ý làm, chúng tôi làm việc cật lực, chu toàn nhiệm vụ trong thời gian sớm nhất.
Vì tinh thần kỷ luật, vì tinh thần trách nhiệm của chúng tôi mà bọn VC rất nể nang anh em biệt kích, không dám hạch sách đầy đọa chúng tôi. Đối với bọn VC, chúng tôi vẫn còn là một quân bài để bọn VC dùng để đổi chác khi cần đến. Hơn nữa, chúng vẫn sợ bóng sợ gió chúng tôi: Nếu đàn áp chúng tôi, một khi đại quân Miền Nam ra tới nơi, chíng chúng tôi sẽ là những người đầu tiên tiêu diệt bọn chúng. Vì thế, bọn VC để yên cho chúng tôi sống.
Vào những năm 72 – 73, chúng tôi được chuyển về trại “Quyết Tiến” ở Hà Giang. Khi tin tức về hòa đàm Ba Lê trở nên nóng hổi, bọn cai tù thỉnh thoảng tập trung chúng tôi lại, cho nghe thông tin về diễn tiến của hòa đàm này. Tin đưa ra là anh em chúng tôi sẽ được trao trả đầu tiên khi hòa đàm được ký kết, làm chúng tôi nôn nóng hết sức. Đã có lần, anh em chúng tôi được phát mỗi người một bộ quần áo nâu, tập họp đem theo hành lý để sửa soạn được đưa đi trao đổi. Nhưng cuối cùng, bọn chúng lại đưa chúng tôi về,với lý do là “Chiến tranh còn tiếp diễn, không thể trao đổi tù binh.”
Mặc dù cuộc trao đổi tù binh không thành sự thật, nhưng trong tương lai có thể sẽ có những cuộc trao đổi khác, do đó, bọn VC đã thay đổi thái độ với chúng tôi. Chúng để yên cho chúng tôi tự coi sóc, tự chỉ huy lẫn nhau, miễn là chúng tôi không vi phạm nội quy của trại.
Hy vọng của chúng tôi cứ như thế mà tăng cao lên, cho tới năm 1975, khi bọn chúng một lần nữa tập họp chúng tôi lại, cho nghe radio:
Miền Nam đã đầu hàng!
Chúng tôi không thể nào tin vào những gì vừa mới nghe qua đài phát thanh!
Bao nhiêu cố gắng, bao nhiêu hy vọng đã tan thành mây khói. Nhìn bọn VC ôm nhau nhẩy múa ăn mừng chiến thắng mà lòng chúng tôi tan nát.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lúc chúng tôi ra đi, đã thật là hùng mạnh, đầy đủ khả năng Bắc Tiến! Tại sao cả một quân lực như vậy mà lại thua trận, đầu hàng?
Từ khi bị bắt, chúng tôi vẫn vững lòng tin tưởng ở chiến thắng cuối cùng, nên đã cố sống hùng sống mạnh chờ thời cơ. Nay thời cơ đã tiêu tan, chúng tôi bám víu vào cái gì nữa để mà sống đây?
Chúng tôi ôm nhau khóc sướt mướt. Tinh thần chúng tôi xuống đến mức thảm hại.
Đã có người nghĩ đến tự tử. Tôi cũng nghĩ tói điều này. Nhưng cũng may, đa số anh em chúng tôi đều theo đạo công giáo, việc tự tử coi như là đã phạm giới luật của Thiên Chúa, nên anh em chúng tôi đã tìm sức sống trong tiếng kinh cầu nguyện. Cả một tuần lễ, chúng tôi không ra ngoài làm lao động, không hội họp, chỉ lặng thinh nhìn nhau. Bọn Việt Cộng bây giờ không còn sợ bị “Bắc Tiến” nữa, không sợ bị chúng tôi trả thù nữa, nhưng cũng không dám đụng chạm gì tới tụi tôi lúc này.
Một thời gian sau, có tin những sĩ quan biệt kích của chúng tôi được đưa về trại “Cổng Trời” nơi chúng tôi đang ở. Tôi được biết có 3 sĩ quan cùng nhẩy ra Bắc với chúng tôi, đó là Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện, Đại Úy Rạng và một Thiếu Úy mà tôi không nhớ tên. Cả ba sĩ quan này, tuy được đưa về cùng trại với chúng tôi, nhưng ở khu “Biệt giam”. Chúng tôi rất quý mến những vị sĩ quan này, vì ngoài cương vị là cấp chỉ huy, họ còn là những nguời lớn tuổi hơn chúng tôi, nhất là Đại Úy Luyện, ông không những là một cấp chỉ huy, lại còn là huấn luyện viên của chúng tôi nữa, nên ai cũng biết ông và rất kính nể ông.
Từ khi biết những sĩ quan này về cùng trại, hầu như tất cả anh em biệt kích chúng tôi đều tìm dịp đi ngang lán của ông, nghiêm trang đứng chào ông, dù là không biết ông có nhìn thấy chúng tôi hay không? Mỗi lần như vậy, ông đều tìm cách báo cho chúng tôi biết bằng cách ho lên đánh tiếng, đọc một câu thơ, hoặc ném một cục đá nhỏ về phía chúng tôi. Mặc dù luật biệt giam của bọn VC cấm chúng tôi không được lảng vảng quanh khu biệt giam và cấm người bị biệt giam liên lạc với người bên ngoài, chúng tôi vẫn tìm cách tiếp tế cho ông và ông cũng luôn luôn tìm cách liên lạc với chúng tôi. Biết tinh thần anh em chúng tôi đang xuống rất thấp, ông đã tìm đủ mọi cách viết thư ra, cổ võ tinh thần chúng tôi. Ông khuyên chúng tôi hãy ráng sống, chờ ngày về đoàn tụ với gia đình.
Năm 1978, khi chúng tôi đang ở Tuyên Quang, nghe tin bọn Việt Cộng và Trung Cộng sắp đánh nhau, đã có một số biệt kích gốc Trung Hoa Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch tìm đường trốn về Trung Cộng. Những người này nhắn lại với anh em là sẽ dẫn đường cho quân Trung Cộng qua giải thoát tất cả biệt kích. Họ có trốn về được tới Trung Cộng hay không? Chúng tôi hoàn toàn không có tin tức gì cả, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, tất cả anh em chúng tôi đều được chuyển về trại “Lam Sơn” và “Lý Bá Sơ” ở Thanh Hóa. Lúc này cũng là lúc Trung Cộng đã tràn quân qua biên giới giao chiến với bọn Cộng Sản.
Biết rằng chúng tôi đã không còn là mối nguy hiểm cho chúng nữa, bọn VC đã thả lỏng chúng tôi đôi chút. Bọn chúng đã không những không canh giữ chúng tôi nghiêm ngặt, mà lại còn cho chúng tôi ra ngoài trại làm việc nữa.
Lần đầu tiên được ra ngoài làm việc, chúng tôi cảm thấy thật là thoải mái. Đi giữa những khu rừng dầy đặc, chúng tôi cảm giác thật là quen thuộc, dù là chưa bao giờ được tới nơi này. Chúng tôi được huấn luyện để sống ở trong rừng mà!
Được tiếp xúc với dân, chúng tôi mới thấy cuộc sống của họ thật là khổ cực, nghèo nàn: Suốt ngày lam lũ, làm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhà cửa xiêu vẹo đổ nát. Anh em chúng tôi đã tìm cách giúp đỡ cho dân, bằng cách tự bỏ quên nhưng món đồ nghề như dao, búa, cưa, đục . . . ở gần nhà của họ, để cho họ có đồ mà xài. Cũng có khi chúng tôi kéo nhau vài ba đứa tự chặt cây, sửa lại cột kèo, lợp lại mái nhà cho họ. Những người dân này lúc ban đầu không biết chúng tôi là ai? Họ trả ơn chúng tôi bằng những củ khoai lang hoặc một ít gạo. Nhưng chúng tôi không lấy, vì biết rằng họ rất là nghèo.
Một thời gian sau nữa, bọn VC đã đem những người “Tù Hình Sự” sát nhập vào với chúng tôi (Tù Chính Trị). Đám tù hình sự này, đương nhiên toàn là những thứ “Khó xài” đối với bọn VC, nhưng riêng đối với chúng tôi, chúng tôi đối xử với họ một cách công bằng, tôn trọng lẫn nhau. Bọn họ tuy thuộc loại “Ba đá”, nhưng đã “Nghe Danh” chúng tôi, vì mỗi khi có xung đột xẩy ra, chúng tôi bênh nhau kỹ càng, dợt bọn chúng te tua ngay lập tức. Và nếu họ bị bọn VC đánh đập đối xử bất công, chúng tôi bênh vực họ ngay lập tức. Do đó, họ rất e dè, nể phục chúng tôi.
Khi được giao nhiệm vụ nấu và chia phần ăn cho cả trại, chúng tôi đã tự chế ra cái “Cân Tiểu Ly” bằng cách dùng một đòn ngang buộc cục đá ở đằng đầu và ở phần giữa có một cái giỏ để chén cơm vào đó rồi treo lên xà ngang. Mỗi lần chia cơm, ai cũng phải có phần bằng nhau, không thêm bớt một hột: Trước mặt mọi người, chúng tôi xới đầy một chén cơm, móc vào giỏ và thay đổi vị trí cho tới khi chén cơm nằm ngang hàng, cân bằng với cục đá. Người trưởng toán đánh dấu và cột chặt vị trị cái giỏ lại. Mỗi người tự đem chén bát (cùng một thứ do trại phát) tới để được xới cơm vào bát, đem để lên cân. Người trưởng toán tùy theo vị trí của cái cân mà thêm bớt phần cơm cho đến khi cân được thăng bằng. Tới khi đó, người lãnh cơm, nếu bằng lòng, sẽ tự lấy cái chén của mình ra để tới phiên người khác.
Phát cơm theo kiểu này, rất lâu, nhưng lại rất công bằng, không có ai phàn nàn tranh cãi. Chúng tôi nghe tin các trại khác cũng muốn bắt chước chúng tôi, nhưng họ không thành công, vì người chia cơm và toán trật tự đã không được mọi người nể vì, xáo trộn vẫn xẩy ra mỗi khi chia cơm. Bọn VC lúc đầu, rất thán phục cách thức làm việc của chúng tôi, nhưng sau đó, bị cấp trên khiển trách là chúng tôi đã làm xấu mặt chế độ tới nỗi đem từng hột cơm ra mà đong, mà đếm, chúng đã không cho chúng tôi dùng cái “Cân Tiểu Ly” này nữa. Nhưng, nếu không làm như vậy, chắc chắn sẽ có khiếu nại, vì người nào cũng nghĩ rằng chén cơm của mình ít hơn chén cơm của người khác, do đó, chúng tôi vẫn cứ dùng, bọn VC không có cách nào khác hay hơn, nên đã không can thiệp tới việc chia cơm nữa.
Đã có một lần, một người đàn bà già yếu, bị bệnh chết trong nhà mà không có thân nhân chôn cất. Bọn chính quyền sở tại không cho hòm mà cũng không giúp phương tiện chôn cất, dân trong thôn không còn cách nào khác, cứ để cái xác xình thối ra đó, không ai dám đi ngang khu vực này nữa. Một biệt kích tên Nguyễn Văn Tâm (Tâm Sún) biết chuyện này, đã tự tìm ván đóng hòm, bốc cái thây ma xình thối đó mà đem chôn tử tế. Dân làng biết ơn, đem cúng anh một con gà và một lít rượu (đó là những món hàng xa xỉ phẩm). Anh chỉ cuời chứ không nhận, Sau này, khi được biết anh Tâm và đám chúng tôi là những “Biệt Kích Miền Nam” dân chúng rất là quý mến chúng tôi. Từ những lúc đầu tiên, mỗi khi nói chuyện, họ đứng sau bức tường hoặc sau lũy tre để nói chuyện, họ đã trực tiếp giáp mặt chúng tôi, gọi chúng tôi với cái tên đặc biệt:
“Anh Biệt Kích Miền Nam”
Một cách rất quý mến, trân trọng.
Và đó cũng là niềm khích lệ lớn cho chúng tôi. Ít ra, nếu không chịếm lại được miền Bắc, chúng tôi cũng chiếm được NHÂN TÂM của người miền Bắc.
Lúc này là vào khoảng năm 1979, bọn VC đã không còn sợ chúng tôi vượt thoát, không sợ chúng tôi trả thù, lại được chúng tôi giúp đỡ làm những công việc mà bọn chúng không thể làm (xây nhà, đóng bàn ghế . . . ) nên bọn VC đã hầu như thả lỏng chúng tôi, cho chúng tôi tự do đi lại trong khu vực từ 3km tới 5km chung quanh trại giam. Trừ súng đạn là chúng tôi không được đụng tới thôi, chứ còn bất cứ dao kéo kìm búa nào chúng tôi cũng có quyền sử dụng. Khi nghe tin những Sĩ Quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị chúng đem ra Bắc giam giữ gần trại chúng tôi, chúng tôi cũng đã tìm cách gặp mặt, nói chuyện với họ để biết thêm tin tức và để . . . ngắm lại người Miền Nam mà đã hơn mười năm qua, chúng tôi không được gặp gỡ. Mặc dù họ không phải là . . . Đại Quân Miền Nam ra giải phóng Miền Bắc như chúng tôi hằng mong ước, nhưng họ cũng là những người lính mà chúng tôi ngưỡng mộ. Ít ra, họ đã chiến đấu tới cùng, đã hoàn tất những công việc mà họ đã phải làm. Chúng tôi tự đặt ra nhiệm vụ phải bảo vệ những vị sĩ quan bị tù đầy này, dù họ không phải là cấp chỉ huy trực tiếp của chúng tôi, nhưng cũng là người lính của QLVNCH như chúng tôi. Khi nghe tin bọn VC quản giáo áp đặt những hình phạt quá khắt khe với những vị sĩ quan này, chúng tôi tuy không thể trực tiếp can thiệp, nhưng đã gián tiếp can thiệp, bằng cách từ chối không giúp đỡ bọn cai tù trong những công việc cần làm, nên bọn chúng cũng biết mà nới lỏng gọng kìm đối với nhưng nguời anh em kia của chúng tôi.
Nhất là, khi được biết thân nhân của các vị sĩ quan khi đã vượt cả ngàn dặm đường xá xa xôi tới thăm cha, chông, con bị giam ở nơi rừng núi trùng điệp này, đã bị hoặc là dân chúng, hoặc là bọn tù hình sự, hoặc là đám quản giáo đón đường cướp bóc hoặc bắt trả giá gánh gồng thật cao, chúng tôi đã yêu cầu bọn quản giáo cho phép giúp đỡ những người đi thăm này. Chúng tôi đã ra khẩu hiệu: Các thân nhân đi thăm tù cũng là thân nhân của Biệt Kích, ai đụng tới những người này, nhẹ thì “Máu Đổi Máu” nặng thì “Mạng Đổi Mạng” nên không ai còn dám . . . dỡn mặt với “Biệt Kích Miền Nam” nữa. Chúng tôi tự dựng lên những căn nhà lá cho các thân nhân này có chỗ nghỉ qua đêm an toàn, chúng tôi cũng tự đóng những chiếc “Xe Trâu” để chở đồ thăm nuôi cho các vị sĩ quan đang bị tù đầy.
Tình Huynh Đệ Chi Binh của chúng tôi là như thế đó.
Những thân nhân của các vị này được chúng tôi giúp đỡ, cũng đã nghĩ ra cách đền đáp chúng tôi, họ đã tự hỏi chúng tôi:
“Các anh có muốn viết thư về cho gia đình hay không? Chúng tôi sẽ đem về tận nơi cho thân nhân các anh!”
Câu nói đầy tình nghĩa này đã làm cho chúng tôi thật cảm động. Chúng tôi cũng muốn như vậy, nhưng không dám nói ra, vì biết rằng đường xá xa xôi, không dễ gì tới nơi được. Hơn nữa, gia đình chúng tôi không biết có còn ở chỗ cũ hay không? Đã hơn mười năm qua rồi, chúng tôi ra đi vì nhiệm vụ bí mật, không hề nói ra nửa lời cho gia đình vợ con biết. Nay thời thế đã đổi thay, vật đã đổi, sao đã dời, làm thế nào để biết người vợ của mình có còn chờ đợi mình hay không?
Tôi đã suy nghĩ, thôi thì cứ để giòng đời trôi qua đi. Khi nào được trở lại nhà hẵng hay.
Nhưng một số anh em khác cũng đã viết thư về cho gia đình. Đã có một số vợ con của Biệt Kích ra thăm chồng. Tôi cũng được tin của gia đình, do một thân nhân của bạn bè tự đi tìm dùm, nhưng là một tin không vui: Gia đình tôi đã dời đi đâu không ai tìm được. Tôi không buồn, vì đã đoán biết được thế sự như vậy.
Vào một ngày của năm 1982, tôi được bọn VC kêu lên báo tin được trả tự do. Tôi đứng lặng người một lúc rồi mới cám ơn để trở về thu xếp đồ đạc.
Tôi trở về Tam Hiệp Biên Hòa sống những ngày còn lại. Tôi đã gặp lại vợ con tôi và làm đủ mọi công việc để mưu sinh. Cha xứ và mọi người trong họ đạo hết lòng giúp đỡ tôi trong cuộc sống hàng ngày, nhưng bọn công an luôn luôn làm khó dễ tôi.
Cuối cùng, tôi chịu không nổi, phài tìm đường vượt biên. Tôi và đứa con trai út tìm đường bộ, đi từ Việt Nam qua Căm Bốt rồi tới Thái Lan. Khi phái đoàn Mỹ phỏng vấn tôi, hỏi tôi có muốn qua Mỹ hay không? Tôi đã trả lời:
“Người Mỹ không tốt với chúng tôi, tôi không qua Mỹ đâu.
Tôi chọn Úc, và đã sống một cuộc sống tự do, bình thản cho tới hôm nay, cho tới mãn đời của tôi.
NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY!
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment